Trận Lụt Lịch Sử 2008 Hà Nội

Trận Lụt Lịch Sử 2008 Hà Nội

Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh (hay Lăng Hồ Chủ tịch, Lăng Bác) là nơi gìn giữ thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lăng được chính thức khởi công ngày 2/9/1973 và được khánh thành vào ngày 29/8/1975, tại vị trí của lễ đài cũ giữa Quảng trường Ba Đình, nơi Bác Hồ từng chủ trì các cuộc gặp gỡ.

Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh (hay Lăng Hồ Chủ tịch, Lăng Bác) là nơi gìn giữ thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lăng được chính thức khởi công ngày 2/9/1973 và được khánh thành vào ngày 29/8/1975, tại vị trí của lễ đài cũ giữa Quảng trường Ba Đình, nơi Bác Hồ từng chủ trì các cuộc gặp gỡ.

Hoàng thành Thăng Long – Di tích lịch sử Hà Nội

Hoàng Thành Thăng Long là khu di tích lịch sử Hà Nội được xây dựng từ thế kỷ thứ VII, dưới triều đại Đinh-Tiền Lê sau đó phát triển mạnh ở thời Lý, Trần, Lê và triều Nguyễn. Đây là quần thể công trình kiến trúc đồ sộ và là di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích Việt Nam. Hoàng Thành Thăng Long đã trải qua nhiều biến cố lịch sử và trở thành một phần không thể thiếu của lịch sử dân tộc.

Liên hệ tư vấn miễn phí qua Zalo

Hoàng Thành Thăng Long có diện tích rộng lớn, bao gồm nhiều công trình kiến trúc độc đáo như Cột cờ Hà Nội, Điện Kính Thiên, Đoan Môn và Hậu Lâu. Mỗi công trình đều mang trong mình những giá trị văn hóa và lịch sử đặc biệt, phản ánh sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc và văn hóa Việt Nam qua các thời kỳ.

Hoàng Thành Thăng Long đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa của thế giới. Là nơi ghi dấu rất nhiều những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc. Đối với những người yêu giá trị văn hóa truyền thống, đây là địa điểm vô cùng thú vị để khám phá, tìm tòi những minh chứng chân thực và sống động nhất. Không chỉ thế, với khung cảnh đẹp và giàu giá trị nhân văn, mỗi ngày tại khu di tích này còn đón rất nhiều các bạn học sinh, sinh viên tới chụp ảnh kỷ yếu trước khi ra trường hay tham quan để học hỏi thêm các kiến thực về lịch sử dân tộc.

Có thể bạn quan tâm: Company trip Hà Nội

Hoàng Thành Thăng Long hiện là điểm đến không thể bỏ qua khi đến Hà Nội. Du khách có thể tham quan các công trình kiến trúc, tìm hiểu về lịch sử và văn hóa của các triều đại phong kiến Việt Nam. Các hoạt động văn hóa, lễ hội và triển lãm thường xuyên được tổ chức tại đây, mang lại cho du khách những trải nghiệm thú vị và đầy ý nghĩa.

Giờ mở cửa: Từ 8h đến 17h hàng ngày (trừ thứ Hai).Giá vé:– Người lớn: 30.000 đồng/ lượt– Học sinh, sinh viên từ 15 tuổi trở lên (nếu có thẻ học sinh, sinh viên), người cao tuổi (60 tuổi trở lên) là công dân Việt Nam (xuất trình chứng minh thư hoặc bất kỳ giấy tờ khác chứng minh là người cao tuổi): 15.000 đồng/lượt.– Miễn phí tham quan cho trẻ em dưới 15 tuổi và người có công với cách mạng.

Thăng Long tứ trấn – Di tích lịch sử Hà Nội

Thăng Long tứ trấn là bốn ngôi đền thiêng trấn giữ bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc của kinh thành Thăng Long, gồm: Đền Bạch Mã (trấn Đông), đền Voi Phục (trấn Tây), đền Kim Liên (trấn Nam) và đền Quán Thánh (trấn Bắc).

Thăng Long Tứ Trấn không chỉ là các địa điểm thờ cúng mà còn là phần quan trọng của di sản văn hóa và tâm linh của Hà Nội. Các đền này không chỉ thờ phụng các vị thần mà còn phản ánh sự kết hợp giữa các yếu tố tâm linh và văn hóa truyền thống của người dân Hà Nội.

Vào các dịp lễ Tết, người dân thường đến đây, dâng hương để cầu cho quốc thái dân an, gia đình êm ấm. Có thể nói, Thăng Long tứ trấn đã ăn sâu vào tiềm thức, đời sống tâm linh của người dân Hà Nội, trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa và lịch sử của mảnh đất này.

Chùa Một Cột – Di tích lịch sử Hà Nội

Tọa lạc tại phố Chùa Một Cột, Đội Cấn, quận Ba Đình, Hà Nội. Chùa Một Cột từ lâu đã trở thành biểu tượng của văn hóa Việt Nam. Tương truyền, ngôi chùa này được xây dựng dựa trên “giấc mộng Quan Âm” của vua Lý Thái Tổ. Chùa chỉ có một gian được đặt trên một trụ giữa hồ sen. Điểm nhấn của ngôi chùa nằm ở họa tiết và kiến trúc độc đáo trông như một bông sen trên mặt nước, dân gian quen gọi là chùa Một Cột.

Trải qua những năm tháng chiến tranh trường kỳ, ngôi chùa này đã bị hư hại rất nhiều. Năm 1955, chùa được phục dựng dựa trên kiến trúc cổ vốn có và tồn tại cho đến ngày nay. Chùa Một Cột có kiến trúc độc đáo với ngôi chùa nhỏ nằm trên một cột đá, biểu tượng của bông sen nở giữa hồ nước. Đây là một trong những công trình kiến trúc Phật giáo độc đáo nhất của Việt Nam, thể hiện sự giao hòa giữa kiến trúc và thiên nhiên, và mang đậm nét văn hóa tâm linh của người Việt.

Chùa Một Cột là điểm đến tâm linh quan trọng của Hà Nội. Du khách đến đây không chỉ để chiêm ngưỡng kiến trúc độc đáo mà còn để cầu mong bình an, may mắn và sức khỏe. Chùa Một Cột cũng là một trong những địa điểm được nhiều du khách quốc tế yêu thích khi đến thăm Hà Nội.

Giờ mở cửa: 7:00 – 18:00 Giá vé: Nếu là công dân Việt Nam sẽ được miễn phí vé vào cửa. Nếu là người nước ngoài, mức phí sẽ là 25.000 VND/lượt.

Hồ Hoàn Kiếm và Đền Ngọc Sơn – Di tích lịch sử Hà Nội

Hồ Hoàn Kiếm và Đền Ngọc Sơn nằm ngay trung tâm của Thủ Đô Hà Nội. Đây luôn là địa điểm nằm trong danh sách những danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử Hà Nội mà du khách không thể bỏ qua.

Hồ Hoàn Kiếm trước đây có tên gọi là hồ Lục Thủy hay hồ Thủy Quân. Bởi đây từng là nơi vua dùng để huấn luyện thủy binh chiến đấu. Tuy nhiên, đến thế kỷ XV, hồ đã được đổi tên thành Hồ Gươm, vì gắn liền với sự tích vua Lê Lợi trả gươm báu cho Rùa vàng. Quần thể hồ còn có tháp Bút, đài Nghiên, cầu Thê Húc và đền Ngọc Sơn.

Hiện tại, Hồ Hoàn Kiếm là nơi để mọi người thư giãn, đi dạo, hóng mát và nơi sinh hoạt văn hóa của người dân địa phương. Đây cũng là địa điểm được giới trẻ yêu thích vào mỗi cuối tuần khi tuyến phố đi bộ diễn ra (từ thứ Sáu tới Chủ nhật hàng tuần).

Hình ảnh Tuyên Quang sau trận ngập lụt

TPO - Sau nhiều ngày hoành hành, sáng 12/9, nước lũ ở nhiều khu vực thuộc thành phố Tuyên Quang rút nhanh. Nhà cửa, phố phường ngập rác, bùn đất. Lực lượng công an, công nhân môi trường đô thị và người dân hối hả dọn dẹp, với mong muốn sớm trở lại cuộc sống bình thường.

Trường Phong - Hoàng Mạnh Thắng

LSO-Trong 1000 năm lịch sử của mình, Thăng Long – Hà Nội trải qua các giai đoạn: Thăng Long – Hà Nội đời Lý (1010 – 1225). Năm Canh Tuất 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La và đổi tên Đại La thành Thăng Long với mục đích: “Đóng đô nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, định kế lâu dài cho con cháu đời sau”. Năm 1054, nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt. Nhà Lý có những chính sách để “Cố kết nhân tâm” trong cả nước, tranh thủ tù trưởng miền núi, thắt chặt khối đoàn kết dân tộc, tạo cơ sở chính trị thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhà Lý đặc biệt quan tâm đến vùng rừng núi phía Bắc và Đông Bắc, đó là vùng biên cương có vị trí chiến lược trọng yếu của công cuộc củng cố nền quốc phòng, chuẩn bị kháng chiến chống quân Tống xâm lược. Kinh đô Thăng Long của Đại Việt trở thành một đô thị lớn, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa lớn nhất của đất nước, mở ra...

LSO-Trong 1000 năm lịch sử của mình, Thăng Long – Hà Nội trải qua các giai đoạn: Thăng Long – Hà Nội đời Lý (1010 – 1225). Năm Canh Tuất 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La và đổi tên Đại La thành Thăng Long với mục đích: “Đóng đô nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, định kế lâu dài cho con cháu đời sau”.

Năm 1054, nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt. Nhà Lý có những chính sách để “Cố kết nhân tâm” trong cả nước, tranh thủ tù trưởng miền núi, thắt chặt khối đoàn kết dân tộc, tạo cơ sở chính trị thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhà Lý đặc biệt quan tâm đến vùng rừng núi phía Bắc và Đông Bắc, đó là vùng biên cương có vị trí chiến lược trọng yếu của công cuộc củng cố nền quốc phòng, chuẩn bị kháng chiến chống quân Tống xâm lược. Kinh đô Thăng Long của Đại Việt trở thành một đô thị lớn, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa lớn nhất của đất nước, mở ra thời kỳ phát triển rực rỡ văn minh Đại Việt.

Thăng Long – Hà Nội đời Trần (1226-1400): Giai đoạn này, Thăng Long hiển hách chiến công, để lại dấu ấn lịch sử 3 lần chiến thắng giặc Nguyên Mông. Tháng 1-1258, quân Nguyên Mông chiếm Thăng Long. Để bảo toàn lực lượng, triều đình nhà Trần quyết định tạm thời rút khỏi kinh đô Thăng Long. Ngày 29-1-1258, Trần Thái Tông dẫn quân tiến về Thăng Long. Quân ta mở cuộc tấn công quyết liệt vào Đông Bộ Hầu. Quân địch bị đánh bật ra khỏi kinh thành. Ngày 29-1-1258, Thăng Long được giải phóng. Cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân xâm lược Nguyên Mông của nhà Trần chiến thắng oanh liệt. Năm 1258, giặc Nguyên Mông lại xâm lược nước ta, một lần nữa chúng lại đánh chiếm Thăng Long. Lần thứ hai, với các chiến thắng Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Vạn Kiếp, quân dân nhà Trần giải phóng Thăng Long ngày 9-6-1285. Cuộc kháng chiến lần thứ hai chống quân xâm lược Nguyên Mông của nhà Trần đã đại thắng. Năm 1287, giặc Nguyên Mông lại xâm lược nước ta, lại đánh chiếm Thăng Long. Lần thứ ba, với chiến thắng Bạch Đằng, quân dân nhà Trần giải phóng Thăng Long ngày 9-4-1288, cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của nhà Trần thắng lợi rực rỡ. Nhà Trần đổi tên Thăng Long thành Đông Đô. Thăng Long – Hà Nội đời nhà Hồ và Lê Lợi (1400 – 1527): Năm 1400, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần, lên ngôi vua. Năm 1406, quân Minh xâm lược nước ta. Ngày 22-1-1407, quân Minh chiếm Đông Đô. Cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhà Hồ thất bại. Cướp được nước ta, nhà Minh thi hành chính sách thống trị cực kỳ tàn bạo, hòng biến nước ta thành một quận huyện của chúng. Chúng đổi Đông Đô ra Đông Quan với nghĩa chúng là nước lớn, nước ta là nước nhỏ, là cửa quan phía Đông của Trung Hoa rộng lớn. Năm 1418 Lê Lợi phất cao cờ khởi nghĩa Lam Sơn. Năm 1427, với chiến thắng Chi Lăng, Lê Lợi đại thắng quân Minh. Ngày 3-1-1428, Đông Quan được giải phóng. Ngày 29-4-1428, Lê Lợi lên ngôi vua. Nhà Lê đổi Đông Quan thành Đông Kinh.

Thăng Long – Hà Nội thời Mạc, Lê trung hưng, Lê mạt (1527-1789): Nhà Lê sụp đổ, nhà Mạc lên thay (1527). Đông Kinh trở lại tên Thăng Long. Năm 1588, nhà Mạc cho đắp 3 lần lũy đất bảo vệ thành Thăng Long, đến năm 1592 thì bị nhà Trịnh phá hủy nhưng vào năm 1790 thì nhà Trịnh cho đắp lại thành Thăng Long.

Thăng Long – Hà Nội thời Tây Sơn (1789-1802); tháng 11-1788, quân Thanh xâm lược nước ta. Tháng 12-1788, quân Thanh chiếm Thăng Long. Tháng 1-1789, với chiến thắng Ngọc Hồi, quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ đã giải phóng Thăng Long. Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) đóng đô ở Huế. Thăng Long là thủ phủ của Bắc Thành (Bắc Bộ).

Thăng Long – Hà Nội thời Nguyễn sơ (1802-1831): Năm 1802, Gia Long lên ngôi, cho xây dựng kinh đô ở Phú Xuân, Huế. Thăng Long vẫn là thủ phủ của Bắc thành. Năm 1831, vua Minh Mạng cho sáp nhập mấy phủ, huyện Từ Liêm, Ứng Hòa, Lý Nhân, Thường Tín vào kinh thành Thăng Long, lập thành tỉnh Hà Nội. Tên Hà Nội xuất hiện từ năm đó.

Hà nội Thủ đô ngàn năm văn hiến – Ảnh: ST

Hà Nội thời chống thực dân Pháp xâm lược: Năm 1873, thực dân Pháp chiếm Hà Nội. Sau hơn 60 năm bị thực dân Pháp chiếm đóng, ngày 19-8-1945, Hà Nội khởi nghĩa thắng lợi. Từ các cửa ô Cầu Giấy, chợ Dừa, Cầu Dền, Yên Phụ, các vùng ngoại thành Bưởi, Nghĩa Đô, Hà Đông, Thanh Trì, Thường Tín, Đan Phượng, Hoài Đức, từ bên kia sông Hồng, đồng bào nườm nượp về Nhà hát lớn dự mít tinh rồi biểu tình vũ trang đánh chiếm Phủ Khâm sai, Tòa thị chính, Sở cảnh sát trung ương, sở Mật thám… giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai, Hà Nội cùng cả nước tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ. Ngày 10-10-1954, Hà Nội giải phóng. Sáng 10-10-1954, Ủy ban quân chính thành phố và bộ đội Đại đoàn 308 vào tiếp quản Hà Nội. 20 vạn nhân dân Hà Nội hân hoan đón mừng đoàn quân giải phóng qua 5 cửa ô, tiến về tập kết tại sân vận động Cột Cờ. Chiều 10-10, lễ mít tinh được tổ chức trọng thể tại sân vận động Cột Cờ, đánh dấu giờ phút lịch sử vẻ vang của Hà Nội.

Hà Nội thời chống Mỹ, cứu nước: Là đầu não của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hà Nội góp phần to lớn, xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Hai mươi năm, Hà Nội vừa xây dựng, vừa làm hết sức mình chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Từ năm 1954 đến 1975, Hà Nội có 8,9 vạn lượt người chi viện cho chiến trường miền Nam. Tháng Chạp năm 1972, Hà Nội đã làm nên kỳ tích “Điện Biên Phủ trên không”, bắn rơi 30 máy bay của đế quốc Mỹ, đập tan cuộc tập kích chiến lược cuối cùng của chúng bằng không quân vào thủ đô nước ta, buộc đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, rút hết quân đội xâm lược về nước. Hà Nội được Ủy ban Thường vụ Quốc hội tuyên dương công trạng đã lập công to, xứng đáng là Thủ đô anh hùng.

Hà Nội thời đổi mới: Luôn luôn đi đầu cả nước trong thực hiện các nhiệm vụ chiến lược tiến hành và đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, Hà Nội là niềm tin của cả nước trong định hướng phát triển về mọi mặt. Uy tín và vị thế của Hà Nội ngày càng nâng cao trong nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế. Đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng trong 25 năm đổi mới, làm thay đổi sâu sắc đời sống xã hội, bộ mặt Thủ đô, Hà Nội có thế và lực mới để tiến nhanh và tiến mạnh trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng Thủ đô giầu đẹp, văn minh, hiện đại, đậm đà bản sắc nghìn năm văn hiến Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội.

Có bề dầy lịch sử, văn hóa, truyền thống 1000 năm, Thăng Long – Hà Nội xứng đáng là “Thành phố vì hoà bình”, là “Thủ đô anh hùng”. Luôn luôn là trung tâm đầu não chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục của cả nước, đồng thời là trung tâm kinh tế và giao dịch quốc tế, Hà Nội trên chặng đường mới sẽ phát triển nhanh và bền vững, là niềm tin và niềm tự hào của nhân dân cả nước.

Nhà Trần trị vì được 175 năm thì lâm vào suy thoái. Hồ Quý Ly đại thần nhà Trần thâu tóm quyền lực. Năm 1397, Hồ Quý Ly cho xây dựng Tây Đô ở Thanh Hóa, đổi tên Thăng Long thành Đông Đô, buộc vua Trần dời triều đình vào Tây Đô. Trong 10 năm cuối triều Trần nước ta có hai Đô là Tây Đô và Đông Đô.

Nhà Trần trị vì được 175 năm thì lâm vào suy thoái. Hồ Quý Ly đại thần nhà Trần thâu tóm quyền lực. Năm 1397, Hồ Quý Ly cho xây dựng Tây Đô ở Thanh Hóa, đổi tên Thăng Long thành Đông Đô, buộc vua Trần dời triều đình vào Tây Đô. Trong 10 năm cuối triều Trần nước ta có hai Đô là Tây Đô và Đông Đô. Tây Đô có triều đình, có vị thế về chính trị nhưng Đông Đô (Thăng Long) vẫn là trung tâm kinh tế lớn nhất của đất nước. Năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi Trần Thiếu Đế, lên làm vua. Nhà Hồ ở ngôi 7 năm thì phong kiến nhà Minh sang xâm lược, cha con Hồ Quý Ly bị giặc bắt đưa về Trung Quốc. Sau gần 500 năm giành độc lập, đến nhà Hồ, nước ta lại bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Năm 1418, Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa. Sau 9 năm kháng chiến, nghĩa quân Lam Sơn đã giải phóng được các vùng từ Nam đến Bắc. Năm 1426, ba đạo quân Lam Sơn tiến ra bao vây thành Đông Quan, chủ động "vừa đánh vừa đàm", "vây thành diệt viện", dập tắt mọi hy vọng của giặc Minh trong thành Đông Quan, buộc Vương Thông phải lên đàn thề từ bỏ dã tâm xâm lược và xin rút quân về nước. Ngày 29-4-1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, khôi phục quốc hiệu Đại Việt, định đô ở Đông Đô. Năm 1430, đổi tên là Đông Kinh. Thời Hậu Lê, kinh thành Thăng Long được quy hoạch và xây dựng theo quy cách đế đô của quốc gia quân chủ tập quyền. Kinh thành được mở rộng sang phía Đông. Trong Cấm thành, một tòa thành hình chữ nhật xây gạch với cửa chính là Đoan Môn, nhà Lê xây dựng và bố trí lại nhiều cung điện, lầu gác, thâm nghiêm nhất là điện Kính Thiên xây dựng trên đỉnh núi Nùng. Ngoài Hoàng thành, nhiều kiến trúc mới cũng xuất hiện. Kiến trúc kinh thành thời Lê đạt đến trình độ mực thước, hài hòa. Khu dân sự tiếp tục phát triển và được quy hoạch lại gồm hai huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương, mỗi huyện có 18 phường. Đông Kinh lúc này đã có những phố chợ buôn bán tấp nập, nhiều phường thủ công nổi tiếng, như: Nghi Tàm, Thụy Chương dệt vải; Yên Thái làm giấy; Hàng Đào nhuộm điều; tranh Hàng Trống...

Năm 1428, Lê Lợi cho lập nhà Quốc Tử Giám. Năm 1442, mở khoa thi Hội đầu tiên, long trọng tổ chức lễ xướng danh, treo bảng vàng, ban mũ áo cho người trúng tuyển, khuyến khích học hành. Nước Đại Việt dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460-1497) đã đạt tới đỉnh cao của một quốc gia phong kiến độc lập. Tuy nhiên, những mâu thuẫn trong nội bộ triều Lê Sơ, từ đầu thế kỷ XVI, đã dẫn tới sự phế truất vua Lê của tập đoàn phong kiến Mạc Đăng Dung (1572). Năm 1588, nhà Mạc huy động dân đắp 3 lần lũy đất để tăng cường hệ thống phòng thủ kinh thành. Nhưng chỉ 4 năm sau, dưới danh nghĩa phù Lê, họ Trịnh chiếm được kinh thành. Kinh đô chính thức trở lại tên gọi Thăng Long. Triều đình của vua Lê đóng trong Hoàng thành cũ. Phủ Chúa Trịnh được xây bên ngoài, gồm nhiều cung điện nguy nga, chạy dài theo bờ tây Hồ Gươm. Tuy có những biến động về chính trị, nhưng  thời Lê, Mạc, Lê Trung hưng, Thăng Long vẫn là một thành thị - thương cảng sầm uất nhất cả nước và vào loại lớn ở châu Á. Bên cạnh các thương điếm của người Hoa, còn có cả những thương điếm của người Anh, Hà Lan, Đức. Khu vực dân cư trong kinh thành Thăng Long đông đúc hơn trước và có cả nhà hai tầng. Nhiều công trình kiến trúc nghệ thuật, đặc biệt là về tôn giáo đã được xây dựng thêm.

Giữa lúc cao trào cách mạng đầu tiên do Đảng lãnh đạo mà đỉnh cao là phong trào Xô viết Nghệ tĩnh đang diễn ra sôi nổi và rầm rộ trong cả nước, ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra chỉ thị về vấn đề thành lập Hội phản đế Đồng minh, hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam.

Từ đó tới nay, ở mỗi thời kỳ khác nhau có những hình thức và tên gọi tổ chức cụ thể khác nhau phù hợp với nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng nhưng Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt nam nơi tập hợp các giai tầng trong xã hội vì những mục tiêu lớn của dân tộc luôn tồn tại và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam - người chủ xướng việc hình thành Mặt trận Dân tộc thống nhất trong thời hiện đại - vừa là thành viên tích cực của Mặt trận vừa bằng sự sáng tạo, đúng dắn trong đường lối, chính sách, sự gương mẫu phấn đấu vì lợi ích chung của dân tộc đã được các thành viên của Mặt trận thừa nhận vai trò lãnh đạo.

Hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình thức tổ chức của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt nam với mục tiêu tập hợp và phát huy sức mạnh của khối Đại đoàn kết toàn dân phấn đấu cho một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.

MẶT TRẬN THỐNG NHẤT PHẢN ĐỂ ĐÔNG DƯƠNG HỘI PHẢN ĐẾ ĐỒNG MINH

Ngay từ Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã vạch ra sự cần thiết phải xây dựng một Mặt trận Dân tộc thống nhất nhằm đoàn kết các giai tầng trong xã hội, các tổ chức chính trị, các cá nhân phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh mọi nhân tố của dân tộc phấn đấu cho sự nghiệp chung giải phóng dân tộc.

Qua phong trào cách mạng phản đế, phản phong sôi nổi trong cả nước mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, các tổ chức chính trị với các hệ tư tưởng khác nhau nhưng gặp nhau ở mục tiêu giải phóng dân tộc lần lượt xuất hiện với sự tham gia của nhiều tầng lớp, nhiều dân tộc. Quá trình này cũng khẳng định năng lực cách mạng của các giai tầng trong xã hội, khẳng định vị trí đặc biệt và hệ tư tưởng của giai cấp công nhân với việc định hướng cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Quá trình này cũng khẳng định khối liên minh công nông là cơ sở của Mặt trận Dân tộc thống nhất do Đảng chủ xướng. Trong Án nghị quyết về vấn đề phản đế tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10 năm 1930 đã nêu rõ sự cấp thiết phải thành lập Mặt trận Thống nhất phản đế. Ngày 18/11/1930 Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông dương đã ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế đồng minh hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Tháng 3 năm 1935, Đại hội Đảng lần thứ nhất đã thông qua nghị quyết về công tác Phản đế liên minh, quyết định thành lập và thông qua điều lệ của tổ chức nhằm tập hợp tất cả các lực lượng phản đế toàn Đông dương. Điều lệ của Phản đế liên minh rộng và linh hoạt hơn Điều lệ Hội phản đế đồng minh. Bất kỳ người hoặc đoàn thể nào thừa nhận nghị quyết, Điều lệ và thường xuyên nộp hội phí thì được thừa nhận là hội viên.

MẶT TRẬN THỐNG NHẤT NHÂN DÂN PHẢN ĐẾ

Chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân Phản đế được phổ biến qua tài liệu chung quanh vấn đề chính sách mới ngày 30/10/1936 khắc phục những sai lầm trong nhận thức và hành động trong quá trình thực hiện liên minh thời kỳ trước. Việc tập hợp lực lượng trong Mặt trận được công khai qua bức thư ngỏ của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi cho Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp bày tỏ sự đồng minh với nhân dân Pháp, kêu gọi ban hành một số quyền tự do dân chủ cơ bản cho nhân dân Đông Dương và hô hào "tất cả các đảng phái chính trị, tất cả các tầng lớp nhân dân Đông Dương tham gia Mặt trận nhân dân Đông Dương".

Sau khi Mặt trận nhân dân Pháp lên cầm quyền với bản chương trình hành động trong đó có nêu việc thành lập một Uỷ ban của nghị viện điều tra tình hình chính trị và kinh tế ở các thuộc địa, cùng với nhiều nước thuộc địa khác các nhà yêu nước Việt Nam kêu gọi "tiến tới một cuộc Đông dương Đại hội" sáng kiến đó được đảng Cộng sản Đông Dương ủng hộ bằng bức thư ngỏ tháng 8/1936 nêu 12 nguyện vọng cụ thể làm cơ sở cho Đông Dương Đại hội, lời kêu gọi đã dấy lên một phong trào sôi nổi trong nhân dân cả nước.

Tháng 9/1937 một loạt các tổ chức như Thanh niên Dân chủ Đông Dương, Hội Cứu tế bình dân, Công hội, Nông hội ra đời cùng với việc hoạt động công khai và nửa công khai của các tổ chức quần chúng nhuư hội ái hữu, tương tế, các hội hoạt động âm nhạc... từng bước hình thành một Mặt trận Dân chủ Đông Dương.

Tháng 6/1938 Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư công khai cho các đảng phái đề nghị gác các ý kiến bất đồng để "bước tới thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương" chính trong thời kỳ này từ những phong trào Mặt trận đã dần hình thành Mặt trận với tính chất của một tổ chức.

MẶT TRẬN THỐNG NHẤT DÂN TỘC PHẢN ĐẾ ĐÔNG DƯƠNG

Tháng 9/1939,chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Mặt trận Dân chủ Đông dương bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp. Cùng với sự đầu hàng thoả hiệp của thực dân Pháp với phát xít Nhật, vấn đề sống còn của các dân tộc Đông Dương đã đặt ra. Tháng 11/1939 Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo, chuyển cuộc vận động Mặt trận Dân chủ thành Mặt trận Dân tộc thống nhất chống chiến tranh đế quốc với tên gọi chính thức: Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông dương nhằm liên hiệp tất cả các dân tộc Đông Dương, các giai tầng, đảng phái, cá nhân có tinh thần phản đế muốn giải phóng dân tộc chống đế quốc, bè lũ tay sai của chúng và vua chúa bản xứ phản bội quyền lợi dân tộc. Các tổ chức phản đế phát triển nhanh chóng dưới hình thức bí mật và công khai.

VIỆT NAM ĐỘC LẬP ĐỒNG MINH HỘI GỌI TẮT LÀ VIỆT MINH

Năm 1940, quân Nhật kéo vào Đông dương, thực dân Pháp đầu hàng và làm tay sai cho phát xít Nhật. Tại Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8, theo đề nghị của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc, Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp Nhật với tên gọi Việt nam Độc lập đồng minh gọi tắt là Việt minh đã ra đời ngày 19.5.1941 lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của Việt minh và làm cờ tổ quốc "khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà".

Mặt trận Việt minh thu hút được mọi giới đồng bào yêu nước, từ công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản đến tư sản dân tộc, phú nông và một số địa chủ nhỏ có tinh thần yêu nước, đưa tới cao trào đánh Pháp, đuổi Nhật của toàn dân ta trong những năm 1941-1945, Mặt trận Việt minh là một trong những nhân tố cơ bản bảo đảm cho cách mạng thành công.

Từ sáng kiến triệu tập toàn quốc đại biểu đại hội, Đại hội Quốc dân do Tổng bộ Việt minh triệu tập họp ở Tân trào trong 2 ngày 16-17/8/1945 đã thông qua lệnh tổng khởi nghĩa, quyết định quốc kỳ, quốc ca cử ra Uỷ ban giải phóng dân tộc tức là Chính phủ lâm thời do Hồ Chí minh làm Chủ tịch và ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc tuyên ngôn độc lập, đại biểu tổng bộ Việt minh Nguyễn Lương Bằng đọc lời hiệu triệu đồng bào cả nước.

HỘI LIÊN HIỆP QUỐC DÂN VIỆT NAM GỌI TẮT LÀ HỘI LIÊN VIỆT

Năm 1946, giữa lúc nước Việt nam dân chủ cộng hoà vừa ra đời phải đương đầu với nhiều khó khăn lớn, một Ban vận động thành lập Hội liên hiệp quốc dân Việt nam gồm 27 người với đại biểu Việt minh là Hồ Chí Minh, được thành lập nhằm mở rộng hơn nữa khối đoàn kết dân tộc.

Việt minh và Liên Việt đã cùng nhau làm chỗ dựa vững chắc cho chính quyền Cách mạng non trẻ đối phó có hiệu lực với thù trong giặc ngoài.

Năm 1951, trong lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã đi vào giai đoạn quyết liệt, thực hiện khẩu hiệu " Tất cả cho tiền tuyến ", yêu cầu tập hợp các hình thức tổ chức Mặt trận để đoàn kết động viên toàn dân ta tập trung sức người sức của đẩy mạnh kháng chiến trở nên cấp bách. Với các chủ trương đường lối đúng đắn Đảng Lao động Việt Nam và sự ủng hộ tích cực của các Đảng Xã hội, Đảng Dân chủ, các tổ chức chính trị, các nhân sĩ trí thức trong Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt, hai tổ chức Mặt trận được hợp nhất thành Mặt trận Liên Việt.

Mặt trận Liên Việt đã góp phần động viên công sức của toàn quân, toàn dân lập nên chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ, đưa đến việc ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 công nhận chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt nam.

Đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt nam, hất cẳng thực dân Pháp và phá hoại hiệp định Giơ-ne-vơ âm mưu chiếm đóng miền Nam chia cắt lâu dài nước ta. Cách mạng Việt nam lúc này có hai nhiệm vụ chiến lược là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.

Trong bối cảnh đó, ngày 10.9.1955, Mặt trận Tổ quốc Việt nam ra đời với mục đích đoàn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ, đấu tranh đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, xây dựng một nước Việt nam hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Mặt trận Tổ quốc Việt nam đã phát huy tác dụng to lớn của mình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng như trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Mặt trận Tổ quốc Việt nam đã động viên đồng bào và chiến sĩ nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng đánh thắngchiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và hết lòng hết sức đáp ứng các yêu cầu của cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt nam đã tích cực tham gia cải tạo Xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và giúp đỡ các nhà tư sản dân tộc thông suốt chính sách làm cho cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tiến hành thuận lợi, đạt kết quả. Mặt trận đã tích cực góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, ra sức động viên nhân dân tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, xây dựng chính quyền cách mạng, phát triển sản xuất, xây dựng kinh tế, thực hiện nếp sống mới, xây dựng con người mới.

MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM

Trong cao trào đồng khởi của đồng bào miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời (20-12/1960) nhằm đoàn kết toàn dân đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Với đường lối đúng đắn ấy, Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã tập hợp dưới ngọn cờ đại nghĩa của mình các tầng lớp nhân dân, các tổ chức và mọi người Việt nam yêu nước, để cùng nhau chống Mỹ cứu nước.

Mặt trận dân tộc giải phóng không ngừng củng cố và mở rộng khối đoàn kết dân tộc, tổ chức và động viên đồng bào và chiến sĩ miền Nam đẩy mạnh đấu tranh trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao. ảnh hưởng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng không ngừng được mở rộng trong các tầng lớp nhân dân miền Nam và uy tín của mặt trận đã được nâng cao trên trường quốc tế

LIÊN MINH CÁC LỰC LƯỢNG DÂN TỘC DÂN CHỦ VÀ HÒA BÌNH VIỆT NAM

Trong cao trào tiến công và nổi dậy đầu xuân Mậu Thân (1968) Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt nam ra đời (20/4/1968). Kết tụ từ các phong trào đấu tranh yêu nước của các giới sinh viên, học sinh, trí thức, đồng bào tôn giáo, công thương gia, nhân sĩ dân chủ tại các thành thị miền Nam, Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt nam bằng những công tác trong nước và ngoài nước đã góp sức động viên xúc tiến các phong trào ấy, tăng thêm sức mạnh cho khối đoàn kết toàn dân, chống Mỹ cứu nước.

Phấn đấu cho một mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, bảo vệ và xây dựng miền Bắc thực hiện thống nhất nước nhà, Mặt trận Tổ quốc Việt nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt nam đã luôn luôn hợp tác chặt chẽ, hỗ trợ nhau tạo nên một sức mạnh không gì lay chuyển nổi của khối đại đoàn kết dân tộc, và đã đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của toàn dân đến thắng lợi hoàn toàn, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất nước nhà.

Sau khi cả nước đã được độc lập, sự thống nhất và toàn vẹn của một quốc gia đòi hỏi hợp nhất 3 tổ chức mặt trận. Nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất họp từ 31/1 đến 4/2/1977 tại thành phố Hồ Chí Minh đã thống nhất ba tổ chức Mặt trận ở hai miền Nam Bắc nước ta thành một tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất duy nhất lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống nhất ý chí của tất cả các tổ chức của các giai tầng trong xã hội, các cá nhân tiêu biểu của các dân tộc, tôn giáo, tầng lớp, các vị lãnh đạo tiêu biểu cho ý chí đoàn kết của dân tộc, luôn phấn đấu xây dựng khối Đại đoàn kết dân tộc vững mạnh thực hiện lời dạy của Hồ Chí Minh vị lãnh tụ của toàn dân tộc: "Mục đích phấn đấu của Mặt trận Dân tộc thống nhất là xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh".

Công viên Hồ Tây thành lập ngày 19 tháng 5 năm 2000, là khu giải trí nằm trong địa phận phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội. Với tổng diện tích 8,1 ha, Công viên Hồ Tây với thiết kế độc đáo, hiện đại màu sắc rực rỡ sôi động của một tổ hợp vui chơi giải trí đa năng, gồm khu Công viên nước và Công viên Mặt trời mới. Công viên Nước bao gồm 14 khu trò chơi dưới nước hiện đại; toàn bộ trang thiết bị của Công viên Nước Hồ Tây được nhập khẩu trực tiếp từ Tây Ban Nha, tất cả đều đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn mà hiệp hội Công viên Nước thế giới quy định. Khu vui chơi trên cạn (Công viên Mặt Trời Mới), nằm cạnh Công viên Nước, với 13 thể loại trò chơi hiện đại dành cho mọi lứa tuổi. Từ khi đưa vào hoạt động, Công viên đã trở thành điểm đến quen thuộc hấp dẫn, đáp ứng được mọi nhu cầu vui chơi, giải trí của người dân Thủ đô và du khách trong và ngoài nước,

Lịch sử của Lưỡng Hà (Mesopotamia) trải dài từ khi bắt đầu có người định cư trong thời kỳ Hạ Sumaya cho đến thời cổ đại hậu kỳ. Quá trình lịch sử này được ghép nối từ các bằng chứng qua các cuộc khai quật khảo cổ và số lượng các nguồn ghi chép tăng dần theo thời gian, sau sự ra đời của chữ viết vào cuối thiên niên kỷ thứ 4 TCN. Trong khi ở thời kỳ đồ đá cũ và đầu thời kỳ đồ đá mới, chỉ có một phần của Lưỡng Hà Thượng có người ở, thì đến cuối thời kì đồ đá mới ở đã có các điểm định cư ở phía Nam. Lưỡng Hà là nơi ra đời của nhiều nền văn minh lớn cổ xưa nhất, xuất hiện trong lịch sử từ thời kỳ đồ đồng sớm, vì vậy nó thường được mệnh danh là cái nôi của nền văn hoá văn minh.

Lưỡng Hà (Mesopotamia) có nghĩa đen là "giữa hai dòng sông" trong tiếng Hy Lạp cổ đại. Cái tên Mesopotamia được nhắc đến sớm nhất từ thế kỷ thứ 4 TCN, dùng để chỉ vùng đất phía đông sông Euphrates ở phía bắc Syria.[1] Sau đó, nó được áp dụng chung cho tất cả các vùng đất nằm giữa sông Euphrates và sông Tigris, bao gồm không chỉ một số phần của Syria mà còn gần như toàn bộ Iraq và đông nam Thổ Nhĩ Kỳ.[2] Các thảo nguyên lân cận ở phía tây của Euphrates và phần phía tây của dãy núi Zagros cũng thường được bao gồm trong nghĩa rộng của Mesopotamia.[3][4][5] Có sự phân biệt giữa Thượng/Bắc Lưỡng Hà và Hạ/Nam Lưỡng Hà.[6]

Lưỡng Hà Thượng, còn được gọi là Jezirah, là khu vực nằm giữa sông Euphrates và Tigris tính từ đầu nguồn cho tới Baghdad.[3] Lưỡng Hà Hạ là khu vực từ Baghdad đến Vịnh Ba Tư.[6] Trong cách sử dụng hiện đại, thuật ngữ Lưỡng Hà/Mesopotamia bao gồm cả khía cạnh thời kỳ lịch sử. Nó thường được sử dụng để chỉ khu vực này cho đến khi các cuộc chinh phục Hồi giáo của người Ả Rập vào thế kỷ thứ 7 CN, từ đó tên để chỉ khu vực được thay bằng các tên tiếng Ả Rập như Syria, Jezirah và Iraq.[2][7][nb 1] Cũng có tranh cãi cho rằng những uyển ngữ này là những cái tên mang tính Âu châu trung tâm chủ nghĩa được gán cho khu vực ở thời kỳ phương Tây xâm lấn thế kỷ 19.[8][9]

Có hai loại niên đại được áp dụng: niên đại tương đối và niên đại tuyệt đối. Niên đại tương đối thiết lập thứ tự của các giai đoạn, thời kỳ, nền văn hóa và triều đại, trong khi niên đại tuyệt đối thiết lập tuổi tuyệt đối của chúng được biểu thị bằng năm. Trong khảo cổ học, các niên đại tương đối được thiết lập bằng cách khai quật cẩn thận các địa điểm khảo cổ và tái cấu trúc địa tầng của chúng. Các niên đại tuyệt đối được thiết lập bằng cách xác định niên đại hoặc các lớp mà chúng được tìm thấy, thông qua các phương pháp xác định niên đại tuyệt đối, bao gồm niên đại carbon phóng xạ và các ghi chép bằng văn bản có thể cung cấp niên hiệu hoặc thời gian theo lịch.

Bằng cách kết hợp các phương pháp xác định niên đại tuyệt đối và tương đối, một khung thời gian đã được xây dựng cho Lưỡng Hà, tuy vẫn bao gồm nhiều sự kiện không chắc chắn nhưng đang tiếp tục được cải tiến.[5][10] Trong khuôn khổ này, nhiều giai đoạn tiền sử và lịch sử sơ kì đã được xác định dựa trên cơ sở văn hóa vật chất được cho là đại diện cho từng thời kỳ. Các giai đoạn này thường được đặt tên theo khu vực mà tại đó các di chỉ được phát hiện và xác nhận đầu tiên, ví dụ như trường hợp của các giai đoạn Halaf, Ubaid và Jemdet Nasr. Khi các tài liệu lịch sử xuất hiện nhiều hơn, các thời kỳ có xu hướng được đặt tên theo triều đại hoặc nhà nước thống trị; ví dụ như thời kỳ Ur III và Cổ Babylon.[10] Trong khi triều đại của các vị vua có thể được xác định tương đối chính xác trong thiên niên kỷ thứ 1 TCN, có một biên độ sai lệch tăng dần đối với thiên niên kỷ thứ 2 và thứ 3 TCN.

Dựa trên các ước tính khác nhau về độ dài của các giai đoạn, với rất ít tài liệu lịch sử tìm được, các học giả khác nhau đã đề xuất các cách tính niên đại khác nhau như Niên đại Dài, Trung, Ngắn và Rất Ngắn, nhiều khi sai lệch tới 150 năm trong cách tính niên đại cho mỗi giai đoạn cụ thể.[11][12] Cách tính Niên đại trung tuy có nhiều vấn đề nhưng vẫn tiếp tục được sử dụng phổ biến trong các cuốn sách giáo khoa gần đây về khảo cổ học và lịch sử của Cận Đông cổ đại.[10][13][14][15][16] Một nghiên cứu từ năm 2001 đã đề xuất niên đại phóng xạ carbon có độ phân giải cao từ Thổ Nhĩ Kỳ cho thiên niên kỷ thứ 2 TCN rất gần với thời gian đề xuất trong Niên đại Trung.[17][nb 2]

Sự định cư của con người tại Lưỡng Hà vào thời kỳ đồ đá mới giống như thời kỳ đồ đá cũ trước đây, bị giới hạn ở các khu vực chân đồi của dãy núi Taurus và Zagros và các thung lũng thượng lưu sông Tigris và Euphrates. Thời kỳ tiền đồ gốm A (PPNA) (10.000 - 8,700 TCN) chứng kiến sự ra đời của nông nghiệp, trong khi bằng chứng lâu đời nhất về thuần hóa động vật bắt đầu từ quá trình chuyển đổi từ PPNA sang thời kỳ tiền đồ gốm B (PPNB, 8700 - 6800 TCN) vào cuối thiên niên kỷ thứ 9 TCN. Quá trình chuyển đổi này đã được ghi nhận tại các địa điểm như Abu Hureyra và Mureybet, nơi tiếp tục được định cư từ thời Natufia sang đến thời PPNB.[15][18] Theo các nhà khai quật, các tác phẩm điêu khắc hoành tráng và các kiến trúc vòng tròn bằng đá tại Gotbekli Tepe ở phía đông nam Thổ Nhĩ Kỳ có từ thời PPNA/PPNB sớm và đại diện cho nỗ lực chung của một cộng đồng lớn của những người săn bắn hái lượm.[19][20]

Bình thạch cao, Syria, cuối thiên niên kỷ 8 TCN.

Đầu gắn trượng, cuối thiên niên kỷ 8 TCN.

Nồi thạch cao vùng Trung Euphrates, 6500 TCN, Bảo tàng Louvre

Nồi thạch cao, vùng Trung Euphrates, 6500 TCN, Bảo tàng Louvre

Tượng nữ, thiên niên kỷ 8 TCN, Syria.

Vùng Lưỡi liềm Màu mỡ được định cư bởi một số nền văn hóa khác nhau, phát triển hưng thịnh từ cuối kỷ băng hà cuối cùng (k. 10.000 TCN) cho đến đầu thời kì lịch sử. Một trong những địa điểm thời đồ đá mới lâu đời nhất được biết đến ở Lưỡng Hà là Jarmo, thành lập vào khoảng năm 7000 TCN và cùng thời với Jericho (ở Levant) và Çirth Hüyük (ở Anatolia). Nó cũng như các địa điểm thời sơ kỳ đồ đá mới khác, như Samarra và Tell Halaf nằm ở phía bắc Lưỡng Hà. Các khu dân cư sau này ở miền nam Lưỡng Hà đặc trưng bởi các phương pháp tưới tiêu phức tạp. Địa điểm đầu tiên trong số này là Eridu, được thành lập trong thời văn hóa Ubaid bởi những người nông dân mang theo văn hóa Samarra từ phía bắc.

Văn hóa Halaf đặc trưng với đồ gốm được trang trí với các hoa văn trừu tượng và các bức tượng đất sét có ý nghĩa phồn thực được vẽ tay. Đất sét là vật liệu chính; thường được nặn tạo hình và sơn hình trang trí màu đen. Các nồi, bình và bá chế tác thủ công và nhuộm cẩn thận đã được đem ra trao đổi. Thuốc nhuộm là đất sét có chứa sắt oxit được pha loãng ở các mức độ khác nhau hoặc trộn thêm với nhiều loại khoáng chất để tạo ra các màu sắc khác nhau.

Văn hóa Hassuna là một văn hóa thời đồ đá mới ở phía bắc Lưỡng Hà có từ đầu thiên niên kỷ thứ sáu TCN. Nó được đặt tên theo khu vực khảo cổ Tell Hassuna ở Iraq. Một số di chỉ khác cũng tìm được tư liệu văn hóa Hassuna, bao gồm Tell Shemshara.

Văn hóa Samarra là một nền văn hóa thời đồ đồng đá ở phía bắc Lưỡng Hà có niên đại khoảng 5500-4800 TCN, trùng lặp một phần với Hassuna và đầu Ubaid.

Thời kỳ Ubaid (k. 6500–3800 TCN)[21] là một thời kỳ tiền sử của Lưỡng Hà, lấy tên từ di chỉ Tell al-'Ubaid ở Nam Lưỡng Hà, nơi tìm thấy những dấu tích sớm nhất của thời kỳ Ubaid qua các cuộc khai khuật của Henry Hall và sau này là Leonard Woolley.

Ở Nam Lưỡng Hà, thời kỳ này là thời kỳ sớm nhất được biết đến trên đồng bằng phù sa, mặc dù có khả năng các thời kỳ trước đó bị che lấp dưới lớp phù sa.[22] Nó kéo dài rất lâu, từ khoảng 6500 đến 3800 TCN, được tiếp nối bởi thời kỳ Uruk.[23]

Ở Bắc Lưỡng Hà, thời kỳ Ubaid chỉ diễn ra trong khoảng từ 5300 đến 4300 TCN.[23] Nó diễn ra sau thời kỳ Halaf và thời kỳ chuyển tiếp Halaf-Ubaid và được tiếp nối bởi thời kỳ Đồ Đồng đá muộn. Thời kỳ mới được đặt tên là Bắc Ubaid để phân biệt với Ubaid ở miền nam Lưỡng Hà.[24] Có hai ý kiến giải thích cho sự chuyển tiếp văn hóa. Thứ nhất là có thể có một cuộc xâm lược và người Halaf bị thay thế bởi người Ubaid, tuy nhiên, ý kiến này bị bác bỏ do không có sự gián đoạn giữa văn hóa Halaf và bắc Ubaid.[25] Lý thuyết hợp lý hơn là người Halaf đã tiếp nhận văn hóa Ubaid.[26][27]

Tiếp theo là thời kỳ Uruk. Được đặt theo tên thành phố Uruk của Sumer, thời kỳ này chứng kiến sự xuất hiện của thành thị ở Lưỡng Hà. Nó được tiếp nối bởi nền văn minh Sumer.[28] Thời kỳ Uruk muộn (thế kỷ 34 đến 32) chứng kiến sự xuất hiện dần dần của chữ viết hình nêm và tương ứng với thời đồ đồng sơ kì; nó cũng có thể được gọi là "thời kỳ Tiền-Văn tự".

Thời kỳ Jemdet Nasr, được đặt tên theo di chỉ Jemdet Nasr, thường được xác định niên đại từ 3100-2900 TCN.[29] Nó được phân biệt trên cơ sở đồ gốm đơn sắc và đa sắc, trang trí với hình vẽ và biểu tượng tượng hình.[30] Hệ thống chữ viết hình nêm đã được phát triển trong thời kỳ Uruk trước đó được tiếp tục hoàn thiện. Mặc dù vẫn chưa được xác định chắc chắn nhưng ngôn ngữ ghi trên các phiến đất sét này được cho là tiếng Sumer. Các văn bản đề cập đến các vấn đề quản lí hành chính như phân phối thực phẩm hoặc danh sách đồ vật hay động vật.[31] Các khu định cư trong thời kỳ này có tính tổ chức cao, tập trung quanh một ngôi đền trung tâm quản lí tất cả các khía cạnh của xã hội. Nền kinh tế tập trung vào sản xuất nông nghiệp địa phương và chăn thả cừu, dê. Tính đồng nhất của thời kỳ Jemdet Nasr trên một khu vực rộng lớn ở miền nam Lưỡng Hà cho thấy sự tiếp xúc và giao thương sâu sắc giữa các khu định cư. Điều này được củng cố bằng việc tìm thấy một con dấu tại Jemdet Nasr liệt kê một số thành phố có thể được chứng thực, bao gồm Ur, Uruk và Larsa.[30]

Toàn bộ thời Sơ kỳ triều đại thường được xác định niên đại từ 2900 đến 2350 TCN theo Niên đại Trung, hoặc 2800-2230 TCN theo Niên đại Ngắn.[32] Vào giữa thiên niên kỷ thứ 4 TCN, người Sumer đã sinh sống lâu dài ở Lưỡng Hà mặc dù vẫn có nhiều tranh cãi về thời gian khởi điểm.[33] Rất khó để xác định người Sumer đến từ đâu vì ngôn ngữ Sumer là ngôn ngữ biệt lập, không liên quan đến bất kỳ ngôn ngữ nào được biết đến. Thần thoại của họ có nhiều chi tiết liên quan đến khu vực Lưỡng Hà nhưng rất ít manh mối về xuất xứ của họ, có thể cho thấy họ đã ở đó trong một thời gian dài. Ngôn ngữ Sumer có thể được xác định từ văn tự tượng hình thời đầu xuất hiện từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ 4 TCN.

Vào thiên niên kỷ thứ 3 TCN, các trung tâm đô thị đã phát triển thành các xã hội ngày một phức tạp. Thủy lợi và các phương tiện khai thác nguồn thực phẩm khác đã được sử dụng để tạo ra lượng tích lũy thặng dư lớn. Các dự án xây dựng khổng lồ được thực hiện, và tổ chức hành chính ngày càng tinh vi hơn bao giờ hết. Trong suốt thiên niên kỷ này, các thành bang khác nhau Kish, Uruk, Ur và Lagash tranh giành quyền lực và giành quyền bá chủ ở các thời điểm khác nhau. Nippur và Girsu là những trung tâm tôn giáo quan trọng, cũng như Eridu vào thời điểm này. Đây cũng là thời đại của Gilgamesh, một vị vua nửa lịch sử nửa thần thoại của Uruk và là nhân vật trung tâm của Sử thi Gilgamesh nổi tiếng. Đến năm 2600 TCN, văn tự tượng hình đã phát triển thành hệ thống văn tự kí âm hình nêm.

Trình tự thời gian của thời đại này không được xác định chắc chắn do những khó khăn trong việc đọc hiểu các văn bản và hiểu biết không đầy đủ về văn hóa vật chất của thời kỳ đầu triều đại và các khu vực khảo cổ ở Iraq nhìn chung chưa được xác định niên đại phóng xạ carbon. Ngoài ra, số lượng lớn các thành bang dễ dẫn đến nhầm lẫn, vì mỗi quốc gia có lịch sử riêng của mình. Danh sách vua Sumer là một ghi chép lịch sử chính trị ở thời kỳ này. Nó bắt đầu với các nhân vật thần thoại có triều đại dài phi lí, nhưng những người cai trị sau đó đã được xác thực với bằng chứng khảo cổ học. Người đầu tiên trong số này là Enmebaragesi của Kish, k. 2600 TCN, theo danh sách vua là người đã thu phục tộc láng giềng Elam. Tuy nhiên, một điều phức tạp của danh sách vua Sumer là mặc dù các triều đại được liệt kê theo thứ tự tuần tự, một số nhà vua thực sự cai trị cùng một lúc trên các khu vực khác nhau.

Enshakushanna của Uruk đã chinh phục tất cả Sumer, Akkad và Hamazi, tiếp theo là Eannatum của Lagash, cũng là người đã chinh phục toàn bộ Sumer. Ông nổi tiếng với sự tàn bạo và khủng bố, và ngay sau khi ông chết, các thành bang đã nổi loạn và đế chế sụp đổ. Một thời gian sau, Lugal-Anne-Mundu của Adab đã tạo dựng đế chế đầu tiên, tuy tồn tại trong thời gian ngắn, kéo dài về phía tây Lưỡng Hà, ít nhất là theo các tư liệu lịch sử có sau đó nhiều thế kỷ. Người Sumer bản địa cuối cùng cai trị hầu hết Sumer trước Sargon của Akkad là Lugal-Zage-Si.

Trong thiên niên kỷ thứ 3 TCN, đã có sự cộng sinh văn hóa rất mật thiết giữa người Sumer và người Akkad bao gồm việc sử dụng phổ biến song ngữ.[34] Ảnh hưởng của tiếng Sumer đối với tiếng Akkad (và ngược lại) thể hiện rõ trong tất cả các lĩnh vực, từ việc vay mượn từ vựng trên quy mô lớn, cho đến hội tụ cú pháp, hình thái và âm vị học. Điều này đã khiến các học giả nhắc đến tiếng Sumer và tiếng Akkad trong thiên niên kỷ thứ 3 như là một cặp liên mình ngôn ngữ (spachbund).

Tiếng Akkad dần thay thế tiếng Sumer thành ngôn ngữ nói của Lưỡng Hà vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ 3 và thứ 2 TCN (thời điểm chính xác vẫn đang được tranh luận),[35] nhưng tiếng Sumer tiếp tục được sử dụng như một thứ ngôn ngữ linh thiêng cho nghi lễ, văn chương và khoa học ở Lưỡng Hà cho đến thế kỷ 1 CN.

Thời kỳ Akkad thường được xác định niên đại từ năm 2350-2170 TCN theo Niên đại trung, hay 2230-2050 TCN theo Niên đại ngắn.[32] Khoảng năm 2334 TCN, Sargon trở thành vua của người Akkad ở miền bắc Lưỡng Hà. Ông đã tiến hành chinh phục một khu vực trải dài từ Vịnh Ba Tư cho đến Syria ngày nay. Người Akkad là một tộc người Semit và ngôn ngữ Akkad được sử dụng rộng rãi như ngôn ngữ chung trong thời kỳ này, nhưng tiếng Sumer vẫn được sử dụng như ngôn ngữ viết. Người Akkad đã phát triển và nâng cấp hệ thống tưới tiêu của người Sumer, kết hợp các đập lớn và đập dẫn dòng để tạo thành cho các hồ chứa và kênh đào sử dụng cho vận chuyển khoảng cách lớn.[36] Triều đại tiếp tục cho đến khoảng năm 2154 TCN, và đạt đến đỉnh cao dưới thời Naram-Sin, người bắt đầu truyền thống các vị vua tự đồng hóa với thần thánh.

Đế chế Akkad mất dần quyền lực sau triều đại Naram-Sin, và cuối cùng bị người Guti từ dãy Zagros xâm chiếm. Trong nửa thế kỷ, người Guti kiểm soát Lưỡng Hà, đặc biệt là miền nam, nhưng họ để lại rất ít dấu tích văn tự, vì vậy hiểu biết về họ không nhiều. Khi người Guti dần để mất miền nam Lưỡng Hà, triều đại thứ hai của Lagash nổi lên. Nhà vua nổi tiếng nhất của nó là Gudea, đã để lại nhiều bức tượng tạc hình ông trong các ngôi đền trên khắp Sumer.

Cuối cùng, Guti bị lật đổ bởi Utu-hengal của Uruk, và các thành bang khác nhau lại tranh giành quyền lực. Thành bang Ur cuối cùng đã thống nhất khu vực Sumer khi Ur-Nammu thành lập Đế chế Ur III (2112-2004 TCN). Dưới thời con trai ông là Shulgi, quyền lực tập trung của nhà nước đạt tới đỉnh cao. Shulgi có thể là người ban hành Bộ luật Ur-Nammu, một trong những bộ luật cổ nhất được biết đến (ba thế kỷ trước Bộ luật Hammurabi nổi tiếng hơn sau này). Khoảng năm 2000 TCN, sức mạnh của Ur suy yếu dần và bị người Amorite thôn tính phần lớn diện tích. Đối thủ lâu đời của Sumer ở phía đông, người Elam, cuối cùng đã lật đổ Ur. Ở phía bắc, Assyria vẫn không bị Amorite kiểm soát cho đến tận cuối thế kỷ 19 TCN. Điều này đánh dấu sự kết thúc của các đế chế bao gồm các thành bang ở Lưỡng Hà và chấm dứt sự thống trị của người Sumer, nhưng các nhà cai trị sau đó đã tiếp nhận và kế thừa phần lớn nền văn minh Sumer.

Rất ít điều được biết về lịch sử thời kì đầu của vương quốc Assyria. Danh sách vua Assyria đề cập đến những người cai trị từ thế kỷ 23 và 22 TCN trở lại. Vị vua đầu tiên tên là Tudiya, người cùng thời với Ibrium of Ebla, dường như đã sống vào giữa thế kỷ 23 TCN, theo danh sách vua. Tudiya đã ký kết một hiệp ước với Ibrium về việc sử dụng một địa điểm giao dịch thương mại tại Levant do Ebla kiểm soát. Ngoài chi tiết này thì không có gì khác được phát hiện thêm về Tudiya. Ông đã kế vị bởi Adamu và sau đó là mười ba người cai trị chưa rõ. Những vị vua đầu tiên từ thế kỷ 23 đến cuối thế kỷ 21 TCN, được ghi chép như những vị vua sống trong lều trại có khả năng là những người cai trị bán du mục, độc lập trên danh nghĩa nhưng thần phục Đế chế Akkad, bá chủ của khu vực và tại một số thời điểm trong thời kỳ này đã trở nên đô thị hóa hoàn toàn và thành lập thành bang Ashur.[37] Có một vị vua tên là Ushpia (k. 2030 TCN) được cho là đã xây dựng các ngôi đền thờ vị thần của thành phố Ashur. Vào khoảng năm 1975 TCN, Puzur-Ashur I thành lập một triều đại mới, và những người kế tục như Shalim-ahum, Ilushuma (1945-1906 TCN), Erishum I (1905-1867 TCN), Ikunum (1867-1860 TCN), Sargon I, Naram-Sin và Puzur-Ashur II đều để lại những dòng chữ khắc nhắc đến việc xây dựng các ngôi đền thờ phụng Ashur, Adad và Ishtar ở Assyria.

Hai thế kỷ tiếp theo, được gọi là thời Isin-Larsa, đã chứng kiến miền nam Lưỡng Hà bị chi phối bởi cuộc cạnh tranh giành quyền thống trị của hai thành bang của người Amorite là Isin và Larsa. Ilushuma của Assyria (1945 -1906 TCN) trở thành một vị vua quyền lực, đã xâm chiếm các thành bang phía nam và thành lập các thuộc địa ở Tiểu Á. Điều này đã trở thành một kiểu mẫu lặp lại trong suốt lịch sử của Lưỡng Hà cổ đại với sự cạnh tranh trong tương lai giữa Assyria và Babylonia. Eshnunna và Mari, hai thành bang Amorite, cũng trở thành các thế lực hùng mạnh ở phía bắc.

Cổ Babylon là một quốc gia độc lập được thành lập bởi một thủ lĩnh Amorite là Sumuabum vào năm 1894 TCN. Trong hơn một thế kỷ sau khi ra đời, nó là một quốc gia nhỏ và tương đối yếu, bị lu mờ bởi các quốc gia lâu đời và hùng mạnh hơn như Isin, Larsa, Assyria và Elam. Tuy nhiên, Hammurabi (1792 - 1750 TCN) của Babylon đã biến nước này thành một cường quốc và cuối cùng đã chinh phục Lưỡng Hà và xung quanh. Ông nổi tiếng với bộ luật và các cuộc chinh phạt của mình, nhưng đồng thời ông cũng nổi tiếng nhờ số lượng lớn tư liệu lịch sử tồn tại từ thời kỳ trị vì của ông. Sau cái chết của Hammurabi, triều đại Babylon đầu tiên kéo dài thêm một thế kỷ rưỡi nữa, nhưng đế chế của ông nhanh chóng tan rã, và Babylon một lần nữa trở thành một thành bang nhỏ. Triều đại của người Amorite kết thúc vào năm 1595 TCN, khi Babylonia rơi vào tay vua Hittite Mursilis, sau đó người Kassites lên nắm quyền thống trị.

Không giống như phía nam Lưỡng Hà, các vị vua bản xứ Akkad của Assyria đã đẩy lùi những cuộc tấn công của người Amorite trong thế kỷ 20 và 19 TCN. Tuy nhiên, điều này đã thay đổi vào năm 1813 TCN khi một vị vua Amorite tên là Shamshi-Adad I chiếm được ngai vàng của Assyria. Mặc dù tuyên bố là hậu duệ từ vị vua Assyria bản địa Ushpia, ông được coi là một kẻ soán ngôi. Shamshi-Adad I đã lập nên một đế chế khu vực ở Assyria, duy trì và mở rộng các thuộc địa được thành lập ở Tiểu Á và Syria. Con trai của ông là Ishme-Dagan I đã tiếp tục quá trình này, tuy nhiên những người kế vị của ông cuối cùng bị chinh phục bởi Hammurabi. Ba vị vua Amorlaite tiếp sau Ishme-Dagan trở thành chư hầu của Hammurabi, nhưng sau khi ông qua đời, một phó tướng người Akkad bản địa là Puzur-Sin đã lật đổ chính quyền Amorite của Babylon và bắt đầu một thời kỳ nội chiến với nhiều người tranh đoạt ngai vàng, kết thúc bằng việc lên ngôi của vua Adasi khoảng năm 1720 TCN.

Thời kỳ Assyria giữa bắt đầu từ khoảng năm 1720 TCN với sự đánh đuổi người Amorite và người Babylon ra khỏi Assyria bởi vua Adasi. Quốc gia này tương đối mạnh và ổn định, hòa hảo với những người cai trị Kassite ở Babylonia, và thoát khỏi mối đe dọa từ người Hitti, Hurri, Guti, Elam và Mitanni. Tuy nhiên, có một thời kỳ thống trị của người Mitanni từ giữa thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 14 TCN. Thời kì này chấm dứt bởi Eriba-Adad I (1392-1366 TCN), và người kế vị ông Ashur-uballit I đã lật đổ hoàn toàn Đế quốc Mitanni và thành lập một Đế chế Assyria hùng mạnh thống trị Lưỡng Hà và phần lớn vùng Cận Đông cổ đại (bao gồm cả Babylonia, Tiểu Á, Iran, Levant và một số vùng của Kavkaz và Ả Rập), với các chiến dịch quân sự từ biển Địa Trung Hải cho đến Caspian và từ Kavkaz đến Ả Rập. Đế chế tồn tại tới năm 1076 TCN với cái chết của Tiglath-Pileser I. Trong thời kỳ này, Assyria trở thành một cường quốc, lật đổ Đế quốc Mitanni, sáp nhập các vùng đất Hitti, Hurri và Amorite, cướp phá và thống trị Babylon, Canaan/Phoenicia và trở thành đối trọng của Ai Cập.

Mặc dù người Hitti đã lật đổ Babylon, một tộc người khác, Kassite, lấy nó làm thủ đô (khoảng năm 1650-1155 TCN (niên đại ngắn)). Đây là triều đại tồn tại lâu nhất ở Babylon, trị vì hơn bốn thế kỷ. Họ chỉ để lại một số ít ghi chép nên không nhiều thứ được biết về khoảng thời gian này. Vẫn chưa rõ về nguồn gốc của người Kassite; những gì thu thập được về ngôn ngữ của họ cho thấy đó là một ngôn ngữ biệt lập. Mặc dù Babylonia vẫn duy trì được độc lập trong thời kỳ này nhưng nó không phải là một cường quốc ở Cận Đông, và chủ yếu đứng ngoài các cuộc chiến tranh lớn ở vùng Levant giữa Ai Cập, Đế chế Hittite và Mitanni, cũng như các dân tộc độc lập khác trong khu vực. Tuy nhiên, họ đã chiến đấu chống lại đối thủ lâu đời của họ ở phía đông là người Elam. Đến cuối thời kì Kassite, Babylonia bị chi phối bởi Assyria và Elam. Cuối cùng người Elam chiếm được Babylon.

Hurri là một tộc người định cư ở tây bắc Lưỡng Hà và đông nam Anatolia vào những năm 1600 TCN. Đến năm 1450 TCN, họ đã tạo nên một đế chế cỡ trung do quý tộc Mitanni thống trị, khiến các vị vua ở phía tây thần phục và trở thành một mối đe dọa lớn đối với các Pharaoh ở Ai Cập cho đến khi bị Assyria lật đổ. Ngôn ngữ Hurri có liên quan đến tiếng Urartian sau này, nhưng không có bằng chứng thuyết phục nào cho thấy hai ngôn ngữ này có liên quan đến bất kỳ ngôn ngữ nào khác.

Vào năm 1300 TCN, những người Hurri bị đánh đuổi về quê hương của họ ở Tiểu Á, sau khi bị lật đổ bởi người Assyria và Hitti, và trở thành chư hầu cho người "Hatti", hay người Hitti, một nhóm người Ấn-Âu ở phía Tây (thuộc ngữ hệ "kentum") đã thống trị hầu hết Tiểu Á (Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại) tại thời điểm này, từ thủ đô của họ là Hattusa. Người Hitti xung đột với người Assyria từ giữa thế kỷ 14 đến thế kỷ 13 TCN, và mất dần lãnh thổ vào tay các vị vua Assyria thời kỳ này. Tuy nhiên, họ vẫn tồn tại cho đến khi cuối cùng bị người Phrygia chiếm đóng và đánh đuổi khỏi Tiểu Á. Người Hitti bị phân tán thành các thành bang Tân Hitti nhỏ, tồn tại trong khu vực trong nhiều thế kỷ sau.

Các ghi chép từ thế kỷ 12 và 11 TCN rất thưa thớt ở Babylonia, nơi đã được định cư bởi những tộc người Semitic mới, cụ thể là người Aramea, Chaldea và Sutu. Tuy nhiên, Assyria vẫn là một quốc gia hùng mạnh với nhiều nguồn văn bản khảo cổ còn sót lại. Tình hình ở Babylonia thậm chí còn trở nên tệ hơn vào thế kỷ thứ 10 TCN, chỉ tìm được một số ít chữ khắc trên các bia đá. Lưỡng Hà không phải trường hợp duy nhất trong thời kì đen tối này: Đế chế Hittite sớm sụp đổ và rất ít ghi chép còn lại từ Ai Cập và Elam. Đây là thời kì của các cuộc xâm lăng và di cư của nhiều dân tộc mới trên khắp các vùng Cận Đông, Bắc Phi, Kavkaz, Địa Trung Hải và Balkan.

Đế quốc Tân Assyrian thường được cho là khởi đầu với việc lên ngôi của Adad-nirari II, vào năm 911 TCN, kéo dài cho đến khi Nineveh sụp đổ trong tay người Babylon, Media, Scythia và Cimmeria vào năm 612 TCN. Đấy là đế chế là lớn nhất và hùng mạnh nhất từng tồn tại cho đến thời điểm bấy giờ. Ở thời đỉnh cao, Assyria chinh phục triều đại thứ 25 của Ai Cập (và trục xuất hoàng gia Nubia/Kushite) cũng như Babylon, Chaldea, Elam, Media, Ba Tư, Urartu, Phoenicia, Aram/Syria, Phrygia, các nước Tân-Hitti, Hurri, bắc Arabia, Gutium, Israel, Judah, Moab, Edom, Corduene, Cilicia, Mannea và một số phần của Hy Lạp cổ đại (như Síp), và đánh bại và/hoặc bắt triều cống từ Scythia, Cimmeria, Lydia, Nubia, Ethiopia và những nước khác.

Đế quốc Tân-Babylon hay Đế chế Babylon thứ hai là một thời kỳ lịch sử Lưỡng Hà bắt đầu từ năm 620 TCN và kết thúc vào năm 539 TCN. Trong ba thế kỷ trước đó, Babylonia bị cai trị bởi Assyria, những người láng giềng phía bắc cùng nói tiếng Akkad. Người Assyria cố gắng duy trì lòng trung thành của người Babylon thông qua việc ban phát đặc quyền hay các biện pháp quân sự, nhưng sau cái chết của nhà vua Assyria quyền lực cuối cùng, Ashurbanipal vào năm 627 TCN, Babylonia do thủ lĩnh người Chaldea Nabopolassar lãnh đạo đã nổi dậy vào năm sau đó. Babylon liên minh với vua Cyaxares của người Media, và với sự giúp đỡ của người Scythia và Cimmeria để chiếm thành Nineveh vào năm 612 TCN. Assyria sụp đổ vào năm 605 TCN và quyền lực của đế chế được chuyển giao cho Babylon lần đầu tiên kể từ thời Hammurabi.

Sau cái chết của Ashurbanipal vào năm 627 TCN, đế chế Assyria chìm trong một loạt các cuộc nội chiến, tạo điều kiện cho các nước chư hầu vùng dậy giành độc lập. Cyaxares tái tổ chức và hiện đại hóa quân đội Media và liên minh với Vua Nabopolassar của Babylon. Liên quân này cùng với người Scythia đã lật đổ Đế quốc Assyria và hạ thành Nineveh vào năm 612 TCN. Sau chiến thắng cuối cùng tại Carestoish năm 605 TCN, người Media và Babylon thống trị Assyria.

Sau khu Nebuchadnezzar II của Babylon (605-562 TCN) qua đời, Đế quốc Babylon dần dần sụp đổ. Babylon và Media bị người Ba Tư do Cyrus Đại đế lãnh đạo thôn tính vào thế kỷ thứ 6 TCN và sáp nhập vào Đế chế Achaemenes.

Trong hai thế kỷ nằm dưới sự cai trị của triều đại Achaemenid, cả Assyria và Babylonia đều phát triển mạnh mẽ. Vùng Asōristān (Assyria cũ) trở thành nơi cung cấp nguồn nhân lực chính cho quân đội và là trụ cột cho nền kinh tế. Tiếng Aram vẫn là ngôn ngữ chung của đế chế, giống như thời Assyria.

Lưỡng Hà bị Alexander Đại đế chinh phục vào năm 330 TCN, và nằm dưới thời kì đô hộ Hy Lạp hóa trong hai thế kỷ tiếp theo, với Seleucia là thủ đô từ năm 305 TCN. Vào thế kỷ 1 TCN, Lưỡng Hà rơi vào tình trạng hỗn loạn liên tục khi Đế quốc Seleukos bị suy yếu bởi người Parthia và Chiến tranh Mithridates. Đế chế Parthia tồn tại trong 5 thế kỷ, cho đến thế kỷ thứ 3 CN, và được tiếp nối bởi Đế chế Sasan. Sau những cuộc chiến không ngừng giữa người La Mã và người Parthia, rồi đến người Sasan; phần phía tây của Lưỡng Hà rơi vào tay Đế chế La Mã. Kitô giáo cũng như tôn giáo Manda du nhập vào Lưỡng Hà từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 3 CN, và phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là ở Assyria, trở thành trung tâm của Giáo hội phương Đông Assyria và truyền thống Kitô giáo Syria vẫn phát triển cho đến ngày nay. Một số vương quốc Tân-Assyria ra đời, cụ thể là Adiabene.

Đế chế Sasan và Lưỡng Hà thuộc Đông La Mã cuối cùng bị chinh phục bởi đội quân Rashidun dưới thời Khalid ibn al-Walid trong những năm 630. Sau cuộc xâm lược Ả Rập - Hồi giáo vào giữa thế kỷ thứ 7 CN, Lưỡng Hà bị xâm chiếm bởi người Ả Rập ngoại lai và sau này là các tộc người Thổ. Thành phố Assur vẫn còn có người ở cho đến tận thế kỷ 14, và người Assyria có thể vẫn chiếm đa số ở miền bắc Lưỡng Hà cho đến thời Trung cổ. Người Assyria duy trì Cơ đốc giáo Nghi thức Đông phương trong khi người Manda giữ tôn giáo thuyết ngộ đạo cổ xưa của họ và dùng tiếng Aram Lưỡng Hà như tiếng mẹ đẻ cho đến ngày nay. Việc đặt tên theo truyền thống Lưỡng Hà vẫn còn phổ biến trong những tộc người này.

Hà Nội – thủ đô ngàn năm văn hiến, không chỉ là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Việt Nam mà còn là kho tàng lịch sử với nhiều di tích cổ kính và giàu giá trị văn hóa. Những di tích lịch sử Hà Nội là những chứng nhân của thời gian, phản ánh những giai đoạn thăng trầm và những câu chuyện hào hùng của dân tộc.

Khu di tích lịch sử Hà Nội vô cùng độc đáo, mang nhiều giá trị nhân văn và ý nghĩa sâu sắc. Đến những địa điểm này bạn sẽ có cơ hội tìm hiểu về lịch sử – văn hóa của dân tộc. Ngoài ra, đây cũng là những nơi có view “cổ kính” cực đẹp để bạn có thể lên hình “sống ảo”. Hãy cùng Image Travel khám phá những di tích lịch sử biểu tượng của Hà Nội, nơi lưu giữ những dấu ấn vàng son của lịch sử và văn hóa Việt Nam ở bài viết dưới đây nhé!